Năm hết Tết đến, dù cả năm bận bịu hay thảnh thơi như thế nào, dịp cuối năm cận Tết là khoảng thời gian cho họ hàng tụ họp, về quê thăm mộ nhân tiện làm lễ thắp nén hương tổ tiên, họ tộc mời các cụ về ăn Tết cùng con cháu.

Người ta nói, hoài niệm là một trong những sợi dây gắn kết gia đình và họ hàng. Có những câu chuyện chỉ được kể lại mỗi khi dịp Tết về nhưng không ai thấy nhàm chán. Ví dụ như mẹ tôi, bà hay kể về những ngày Tết thiếu thốn thời thập niên 8-90 mà chính tôi, nếu không thấy bà nhắc đến mỗi dịp này, lại mở lời hỏi: “Tết hồi ngày xưa mà mẹ kể chuyện này thế nào ý nhỉ, con quên mất.” Thế là bà lại kể thời khốn khó, thiếu thốn và vất vả thế nào và tôi lại nghe với độ chăm chú và cảm xúc như nghe lần đầu tiên mặc dù đã biết rõ đoạn mở đầu và kết thúc.
Công nhận, trong kí ức về những năm cuối cùng trước khi dỡ bỏ cấm vận, Tết lung linh hơn bây giờ. Hai tháng trước Tết, từ đầu tháng 11 âm lịch, là nhà nhà đã rục rịch chuẩn bị cho Tết. Sự thiếu thốn làm cho sự chuẩn bị Tết kéo dài hơn, không như bây giờ, cả cái Tết có thể được chuẩn bị sau 2 tiếng đi chợ ngày 28-29 Tết. Tôi nhớ, mỗi hôm, ông bà, hay các bác, bố, mẹ lại mang về 1 thứ. Hôm thì ít bóng, treo sẵn bếp để cho nồi canh bóng, rồi hôm ít măng khô, hôm hộp mứt…tích cóp từng ly từng tý.
Tất cả sự chuẩn bị đó sẽ được tập hợp vào hôm gói bánh chưng với gạo nếp, đỗ xanh, thịt heo, lá dong, quây quần của tất cả mọi người để gói và trông nồi bánh chưng ngày Tết. Chính ra, Tết vui ở giai đoạn chuẩn bị, không khí cứ nô nức, hối hả nhưng đầy sự hân hoan và tươi vui.
Người ta nói, “người làm sao, của chiêm bao là vậy”, ngẫm lại, tôi thấy chẳng sai. Ông ngoại tôi trước làm ở thanh tra Chính Phủ, một con người liêm chính và cần kiệm. Ông ngay thẳng, và tiết kiệm nhưng lại gửi gắm sự mưu cầu no đủ vào mỗi cái bánh chưng mà ông gói. Chiếc bánh nào cũng phải đầy đặn, dày, nhiều đỗ, nhiều thịt mà phải nếp cái, thịt ba chỉ loại ngon, đỗ xanh loại hạt mẩy, vỏ bóng, đồ lên có vị thật bùi, béo. Ông còn thích đồ nếp, ăn bao nhiêu cũng không nóng cổ, nên để phân biệt cái nào do chính tay ông gói thì cứ nhìn những cái nào to nhất, đầy đặn nhất so với phần còn lại là biết. Ông hay nói, ăn cho no, cho ngon, không lãng phí là được.

Ngược lại, ông nội tôi lại là một nông dân chính hiệu. Bánh chưng ở nguyên quán Vĩnh Bảo, Hải Phòng là bánh chưng ngọt. Cũng có gạo nếp, đỗ xanh, thịt ba chỉ heo nhưng gia vị còn có thêm ít quế, hoa hồi, tiêu cho thơm và để được lâu hơn. Sự khác biệt nằm ở bánh chưng có thêm dừa, lạc, đường phèn cục và mật. Ông nội tôi thích ngọt, nên bánh chưng ông làm thường sẽ nhiều mật, nhìn màu bánh chưng không còn trắng mà sang màu nâu cánh gián là biết bánh chất lượng dường nào. Bánh được gói bằng lá chuối, với khung bánh định hình bằng cuống lá dừa. Bánh của ông có vị ngọt hơi đậm đặc trưng, nhưng cách ông gói làm mật chảy ra thấm đều vào gạo, chứ không bị chỗ có chỗ không.
Mỗi người đều có bí quyết riêng. Ông ngoại tôi hay ngâm gạo nếp lâu tầm 15 tiếng trở lên, để hạt thật mẩy, trắng muốt. Khi vớt bánh, sẽ ép để cho bánh dền. Ông nội làm bánh ngọt thì đường để cả cục, làm đến đâu cắt cho vào bánh tới đó thì đường không bị chảy và thơm.
Hôm nay, nhân tiện giới thiệu bánh chưng thương hiệu Góc Việt cho cả nhà ăn thử, mọi người đều nói là có vị ngon gần như ông ngoại làm. Thế là yên tâm rồi.

À, thế là Tết này, dù cho Covid, bánh chưng có thịt 😁.